Có những luồng gió theo hướng đông nam thổi vào nước ta gây mưaCâu 21 .Đặc điểm nào của biển Đông làm cho khí hậu nước ta có nhiều đặc tính khí hậu hải dương ?A. biển rộng, nhiệt độ cao và dịch chuyển theo mùaB. biển rộng, nhiệt độ cao và có hải lưuC. biển Vì vậy biển Đông nóng ẩm và chịu ảnh hưởng của gió mùa.-Nhiệt độ trung bình của biển Đông là 25 độ C. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của chế độ gió mùa, nhất là tính chất lạnh của gió mùa Đông Bắc vào mùa Đông nên tính chất nhiệt đới giảm bớt (nhất là vùng biển D. Có một mùa đông nhiệt độ giảm thấp . Câu 16. Vào đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX, độ che phủ rừng ở Tây Nguyên là . A. 40% B. 50% C. 60% D. 70% . Câu 17. Mùa khô ở Tây Nguyên kéo dài . A. 4-5 tháng. B. 3-4 tháng. C. 5-7 tháng. D. 2-3 tháng Lược đồ phân bố nhiệt độ nước biển tầng mặt. - Chế độ nhiệt: Ở biển, mùa hạ mát hơn và mùa đông ấm hơn trên đất liền. Biên độ nhiệt trong năm nhỏ. Nhiệt độ trung bình năm của nước biển trên mặt là 23 0 C. - Chế độ mưa: Lượng mưa trên biển thương ít Dự báo mưa bão ở Bắc Biển Đông, bao gồm cả vùng biển quần đảo Hoàng Sa. VOV.VN - Hồi 16h ngày 18/10, vị trí tâm bão ở vào khoảng 17,9 độ Vĩ Bắc; 112,8 độ Kinh Đông, cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 190km về phía Đông Bắc. Sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão Do ảnh hưởng của không khí lạnh tăng cường kết hợp với hoàn lưu cơn bão số 6 và nhiễu động trong đới gió Đông nên trong hôm nay (20/10), ở Đông Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có mưa vừa, mưa to, cục bộ có nơi mưa rất to và dông. Bắc Bộ, Thanh Hóa và Nghệ An trời rét, nhiệt độ thấp nhất ở vùng núi phổ biến Tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa của Biển Đông nước ta thể hiện rõ nhất qua yếu tố hải văn là nhiệt độ nước biển, độ muối, sóng, thủy triều, hải lưu (sgk Địa lí 12 trang 36) => Chọn đáp án A thanhnien.vn Tin tức thời tiết hôm nay 13.10.2022, theo dự báo từ Trung tâm khí tượng thủy văn quốc gia và Đài khí tượng thủy văn Trung ương (Bộ TN-MT), hồi 1 giờ cùng ngày, vị trí trung tâm vùng áp thấp ở vào khoảng 12,7 – 14,7 độ Vĩ Bắc; 115,5 – 117,5 độ […] Vay Tiền Nhanh Ggads. Trên cơ sở tổng hợp và phân tích số liệu 120 tháng vùng Biển Đông 1/2011 - 12/2020 về trường nhiệt độ nước biển tầng mặt từ dữ liệu viễn thám MODIS, kết quả nghiên cứu cho thấy nhiệt độ nước biển tầng mặt có sự biến động mạnh theo thời gian sự khác biệt giữa hai mùa gió và không gian nhiệt độ tăng dần từ bắc vào nam, từ ven bờ ra ngoài khơi, tuân theo quy luật chu kỳ mùa và liên mùa. Vào mùa gió đông bắc, nhiệt độ nước biển tầng mặt phân bố ở ngưỡng nhiệt rộng, tập trung chủ yếu ở khoảng giá trị từ 26oC - 30oC, nhiệt độ nhỏ hơn 23oC phân bố chủ yếu ven bờ phía bắc Biển Đông đến vĩ tuyến 20oN, chênh lệch giá trị nhiệt độ giữa vùng vịnh Bắc Bộ và Tây Nam Bộ khoảng 9oC. Vào mùa gió tây nam, nhiệt độ nước biển tầng mặt phân bố ở ngưỡng nhiệt hẹp hơn và ít bị biến đổi theo không gian, tập trung chủ yếu ở khoảng giá trị từ 29oC - 31oC. Một số khu vực ven bờ mang tính chất địa đới, như ven bờ Ninh Thuận – Bình Thuận tồn tại một khu vực nước trồi với nền nhiệt thấp khoảng 26oC hoạt động mạnh từ tháng 6 đến tháng 8. Hoạt động của nước trồi rất thích hợp cho sự phát triển của sinh vật. Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for free HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA VỀ CÔNG NGHỆ ĐỊA KHÔNG GIAN TRONG KHOA HỌC TRÁI ĐẤT VÀ MÔI TRƯỜNG 437 XU THẾ PHÂN BỐ NHIỆT ĐỘ NƯỚC BIỂN TẦNG MẶT VÙNG BIỂN ĐÔNG TỪ DỮ LIỆU VIỄN THÁM Nguyễn Ngọc Tuấn1, Đỗ Thị Phương Thảo2, Ninh Thị Kim Anh3, Trần Thị Hương3 1 Viện Nghiên cứu Hải sản, 2 Trường Đại học Mỏ - Địa chất, 3 Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội Tác giả liên hệ nntuan Tóm tắt Trên cơ sở tổng hợp và phân tích số liệu 120 tháng vùng Biển Đông 1/2011 - 12/2020 về trường nhiệt độ nước biển tầng mặt từ dữ liệu viễn thám MODIS, kết quả nghiên cứu cho thấy nhiệt độ nước biển tầng mặt có sự biến động mạnh theo thời gian sự khác biệt giữa hai mùa gió và không gian nhiệt độ tăng dần từ bắc vào nam, từ ven bờ ra ngoài khơi, tuân theo quy luật chu kỳ mùa và liên mùa. Vào mùa gió đông bắc, nhiệt độ nước biển tầng mặt phân bố ở ngưỡng nhiệt rộng, tập trung chủ yếu ở khoảng giá trị từ 26oC - 30oC, nhiệt độ nhỏ hơn 23oC phân bố chủ yếu ven bờ phía bắc Biển Đông đến vĩ tuyến 20oN, chênh lệch giá trị nhiệt độ giữa vùng vịnh Bắc Bộ và Tây Nam Bộ khoảng 9oC. Vào mùa gió tây nam, nhiệt độ nước biển tầng mặt phân bố ở ngưỡng nhiệt hẹp hơn và ít bị biến đổi theo không gian, tập trung chủ yếu ở khoảng giá trị từ 29oC - 31oC. Một số khu vực ven bờ mang tính chất địa đới, như ven bờ Ninh Thuận – Bình Thuận tồn tại một khu vực nước trồi với nền nhiệt thấp khoảng 26oC hoạt động mạnh từ tháng 6 đến tháng 8. Hoạt động của nước trồi rất thích hợp cho sự phát triển của sinh vật. Từ khoá dữ liệu MODIS, nhiệt độ nước biển tầng mặt, vùng Biển Đông, viễn thám 1. Đặt vấn đề Nhiệt độ nước biển là một thông số vật lý cơ bản nhất chi phối mọi quá trình thủy nhiệt động lực biển, đồng thời đảm bảo tồn tại và phát triển đời sống sinh vật trong biển. Nhiệt độ nước biển tầng mặt Sea Surface Temperature – SST có vai trò quan trọng trong hệ thống khí hậu của Trái Đất và nó được xem là thông số quan trọng nhất trong hải dương học [7, 8]. Ngoài nghiên cứu trao đổi hơi nước, nhiệt giữa bề mặt nước và khí quyển, nhiệt độ nước biển tầng mặt còn cung cấp những thông tin hữu ích khác cho các nghiên cứu biển và đại dương. Tuy nhiên việc thu thập số liệu nhiệt độ nước biển tầng mặt trực tiếp từ các chuyến điều tra khảo sát bằng tàu biển, trạm phao cũng như lưu trữ nhiệt độ nước biển tầng mặt rất ít và không liên tục. Biển Đông là một khu vực có tầm quan trọng đặc biệt đối với kinh tế biển Việt Nam, thường xuất hiện hiện tượng nước trồi trong mùa gió tây nam tại một số khu vực [4]. Khi nước trồi hoạt động, các lớp nước lạnh ở tầng sâu di chuyển thẳng đứng lên trên bề mặt mang theo nhiều chất dinh dưỡng tạo điều kiện tối ưu cho quá trình quang hợp của thực vật nổi. Các nghiên cứu nhiệt độ nước biển tầng mặt tại vùng biển liên quan đến biến đổi khí hậu, bão, front nhiệt, hay tìm kiếm ngư trường cá tiềm năng cho thấy nhiệt độ nước biển HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA VỀ CÔNG NGHỆ ĐỊA KHÔNG GIAN TRONG KHOA HỌC TRÁI ĐẤT VÀ MÔI TRƯỜNG 438 tầng mặt có vai trò rất quan trọng trong nghiên cứu biển và đại dương [1, 2, 3, 5]. Do đó việc sử dụng nguồn dữ liệu viễn thám để giám sát phân bố, biến động nhiệt độ nước biển tầng mặt vùng Biển Đông với không gian rộng và thời gian liên tục là vấn đề thiết thực cần thực hiện. Trong nghiên cứu này sử dụng số liệu nhiệt độ nước biển tầng mặt được trích lọc từ dữ liệu viễn thám MODIS để thành lập bản đồ phân bố không gian vùng Biển Đông trong giai đoạn từ 1/2011 - 12/2020 nhằm đánh giá xu thế biến động trường nhiệt độ tầng mặt. 2. Tài liệu và phương pháp nghiên cứu Nguồn số liệu và phạm vi nghiên cứu Bài báo sử dụng nguồn dữ liệu viễn thám do Cục quản trị Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ NASA chụp, xử lý. Nguồn dữ liệu này được công bố công khai và chia sẻ miễn phí trên website OceanColor Web Đây là các file ảnh MODIS của vệ tinh Aqua ở cấp độ 3 ảnh đã được xử lý và giải đoán, mô tả các giá trị trung bình tháng nhiệt độ nước biển tầng mặt. Dữ liệu được thu thập dưới định dạng file netCDF - Network Common Data Form phần tập tin mở rộng có dạng *.nc với độ phân giải 0,25o x 0,25o trong khoảng thời gian tròn 10 năm từ tháng 1 năm 2011 đến tháng 12 năm 2020. Định dạng netCDF được xuất hiện lần đầu tiên vào cuối những năm 1980 bởi Unidata Program Center với mục đích là xây dựng một định dạng tệp cho phép chia sẻ dữ liệu giữa các nhà khoa học trong lĩnh vực khí quyển, đại dương. Các số liệu nhiệt độ nước biển tầng mặt sau khi trích lọc được tổng hợp thành thư mục riêng, file riêng lưu trữ dưới dạng file *xlsx. Sau khi loại bỏ các số liệu nhiệt độ nước biển tầng mặt nằm ngoài khoảng 10 - 35oC theo tiêu chuẩn cơ sở dữ liệu biển thế giới – NODC năm 2009 [9] thì toàn bộ số liệu được tổng hợp vào phần mềm Excel để xử lý, phân tích. Hình 1. Phạm vi nghiên cứu vùng Biển Đông HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA VỀ CÔNG NGHỆ ĐỊA KHÔNG GIAN TRONG KHOA HỌC TRÁI ĐẤT VÀ MÔI TRƯỜNG 439 Phạm vi nghiên cứu là vùng Biển Đông, theo quy định công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, Biển Đông được giới hạn trong phạm vi từ vĩ tuyến 3oN - 26oN và từ kinh tuyến 100oE - 121oE tiếp giáp với 9 nước Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Campuchia, Đài Loan và lãnh thổ Việt Nam Hình 1. Vùng biển Việt Nam bao gồm vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế về thềm lục địa với diện tích khoảng 3,6 triệu km2. Đường bờ biển Việt Nam dài khoảng trải dọc Bắc vào Nam – từ Móng Cái Quảng Ninh đến Hà Tiên Kiên Giang với 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ven biển và 12 huyện đảo lớn nhỏ. Thời gian nghiên cứu là 10 năm từ tháng 1 năm 2011 đến tháng 12 năm 2020. Phương pháp nghiên cứu Mặt dù dữ liệu MODIS đã có những thành quả nhất định, nhưng bộ số liệu này có những hạn chế nhất định như có sự sai lệch trong tính toán nhiệt độ mặt nước biển tại các khu vực bị tác động bởi các nhiễu động khí quyển mạnh. Tuy nhiên tại vùng biển Việt Nam, nhiệt độ nước biển tầng mặt đã được Nguyễn Ngọc Tuấn kiểm chứng với 1407 điểm thực đo tại khắp vùng biển Việt Nam từ Quảng Ninh đến Kiên Giang trong suốt giai đoạn 2015 – 2020. Kết quả kiểm chứng cho thấy hệ số tương quan R từ 0,9 trở lên, sai số trung bình tuyệt đối MAE là 0,08oC, sai số bình phương trung bình quân phương RMSE là 0,67oC. Vì vậy số liệu nhiệt độ nước biển tầng mặt trích xuất từ dữ liệu viễn thám MODIS đảm bảo độ tin cậy để sử dụng nghiên cứu này. Bài báo sử dụng phương pháp thống kê thông thường trong toán học để tính toán, xác định các giá trị đặc trưng cơ bản của chuỗi số liệu như các giá trị lớn nhất, nhỏ nhất và trung bình. Các giá trị đặc trưng này được xác định cho các chuỗi số liệu tháng, mùa, năm và nhiều năm. Các số liệu trung bình nhiều năm được tính theo phương pháp thống kê toán học thông thường, từ chuỗi số liệu liên tục trong các tháng và tính theo theo biểu thức [6].    1 Trong đó  SSTi là các giá trị nhiệt độ bề mặt biển trung bình từng tháng trong một mùa, từng tháng trong một năm.   là giá trị nhiệt độ bề mặt biển trung bình theo tháng, mùa, năm và nhiều năm  n là số lượng các tháng trong một mùa, các tháng trong một năm, nhiều năm. Các số liệu trung bình được xử lý tiến hành xây dựng biến trình theo thời gian và không gian các đặc trưng thống kê của yếu tố nhiệt độ nước biển tầng mặt. Các kết quả được trình bày dưới dạng biểu đồ, đồ thị, bản đồ cho việc phân tích đánh giá kết quả. Các file *.xlsx nhiệt độ nước biển tầng mặt trung bình mùa gió nhiều năm được đưa vào phần mềm bản đồ Surfer để vecto hoá, biên tập thành bản đồ phân bố không gian trường nhiệt. Để biểu thị rõ xu thế đặc trưng nhiệt độ nước biển tầng mặt khu vực nghiên cứu giữa hai mùa HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA VỀ CÔNG NGHỆ ĐỊA KHÔNG GIAN TRONG KHOA HỌC TRÁI ĐẤT VÀ MÔI TRƯỜNG 440 gió đông bắc và tây nam, trước tiên các bản đồ nhiệt độ nước biển trung bình cho từng mùa gió được tính toán xây dựng theo công thức 1 dựa trên chuỗi số liệu 10 năm trong giai đoạn 2011 - 2020. Các bản đồ là kết quả về nền nhiệt độ trung bình theo mùa gió được thể hiện thành các đường đẳng nhiệt với khoảng chia đều là 0,5oC. 3. Kết quả nghiên cứu Việt Nam nằm trong vành đai nội chí tuyến, quanh năm không khí có nhiệt độ cao và độ ẩm lớn, vào mùa hè nóng lực, mùa đông lạnh giá. Kết quả phân bố số liệu nhiệt độ nước biển tầng mặt như mô tả trong Hình 2 có thể thấy rằng sự phân bố nhiệt độ nước biển tầng mặt theo khoảng giá trị vùng Biển Đông có sự khác nhau rõ rệt theo mùa. Số liệu nhiệt độ nước biển tầng mặt vào mùa gió đông bắc từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau vùng Biển Đông dao động trong khoảng giá trị từ 10oC - 35oC nhưng phần lớn giá trị tập trung ở ngưỡng nhiệt từ 26oC - 29oC, ngưỡng nhiệt nhỏ hơn 23oC tập trung hầu hết ở khu vực ven bờ lục địa phía bắc Biển Đông đến vĩ tuyến 20oN. Vào mùa gió tây nam từ tháng 5 đến tháng 9 nhiệt độ nước biển tầng mặt vùng Biển Đông dao động ở ngưỡng nhiệt hẹp hơn với giá trị từ 18oC - 35oC, nhưng phần lớn giá trị tập trung ở ngưỡng nhiệt 28oC - 32oC, giá trị tập trung cao nhất ở ngưỡng nhiệt 29 - 31oC Hình 2. Hình 2. Biểu đồ phân bố số liệu nhiệt độ nước biển tầng mặt oC theo các khoảng giá trị Biểu đồ giá trị nhiệt độ nước biển tầng mặt trung bình tháng nhiều năm vùng Biển Đông cho thấy, nhiệt độ nước biển tầng mặt vùng Biển Đông tuân theo quy luật mùa, nhiệt độ thấp vào mùa gió đông bắc và cao vào mùa gió tây nam. Tuy nhiên tại mỗi vùng biển trong từng khu vực, nhiệt độ nước biển tầng mặt có sự biến động theo chu kỳ mùa khác nhau. Cụ thể vùng biển vịnh Bắc Bộ từ vĩ tuyến 17oN trở lên và kinh tuyến 110oE trở vào đất liền, trong giai đoạn 10 năm từ năm 2011 đến năm 2020 có sự biến động theo chu kỳ mùa mạnh nhất. Giá trị nhiệt độ nước biển tầng mặt trung bình tháng tại vùng biển này dao động trong khoảng giá trị 19,97oC - 31,49 oC, giá trị trung bình là 26,65 oC. Giá trị trung bình tháng thấp nhất cực tiểu vào tháng 2 năm 2018, giá trị trung bình tháng cao nhất cực đại vào tháng 9 năm 2020. Như vậy vùng biển vịnh Bắc Bộ giữa các tháng trong các năm có sự dao động lớn, chêch lệch giá trị giữa cực đại và cực tiểu là 11,52oC. HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA VỀ CÔNG NGHỆ ĐỊA KHÔNG GIAN TRONG KHOA HỌC TRÁI ĐẤT VÀ MÔI TRƯỜNG 441 Hình 3. Biến động nhiệt độ nước biển tầng mặt SST trong từng vùng biển Vùng biển Trung Bộ từ vĩ tuyến 10,5oN - 17oN, kinh tuyến 117oE trở vào đất liền trong giai đoạn 2011 - 2020, giá trị nhiệt độ nước biển tầng mặt trung bình tháng nhỏ nhất là 25,3oC vào tháng 1 năm 2014, cao nhất là 30,84 oC vào tháng 6 năm 2020, giá trị trung bình toàn giai đoạn là 28,3 oC. Vùng biển Đông Nam Bộ từ vĩ tuyến 5oN - 10,5oN, kinh tuyến 105oE - 117oE có giá trị trung bình toàn giai đoạn là 28,98 oC, giá trị nhỏ nhất vào HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA VỀ CÔNG NGHỆ ĐỊA KHÔNG GIAN TRONG KHOA HỌC TRÁI ĐẤT VÀ MÔI TRƯỜNG 442 tháng 1 năm 2014 là 25,7 oC, giá trị cao nhất vào tháng 6 năm 2020 là 31,17 oC. Vùng biển Tây Nam bộ và lân cận từ vĩ tuyến 5oN đổ lên, kinh tuyến 102oE - 105oE nhiệt độ nước biển tầng mặt trung bình tháng thấp nhất vào tháng 1 năm 2014 là 26,3 oC, cao nhất là 31,4 oC vào tháng 5 năm 2016, trung bình toàn giai đoạn là 29,4 oC. Như vậy qua những biểu đồ Hình 3 có thể thấy trong các năm từ 2011 - 2020 nhiệt độ nước biển tầng mặt luôn có giá trị cực đại vào các tháng chính mùa tây nam tháng 6, 7 và giá trị cực tiểu vào chính mùa đông bắc tháng 12, 1. Giá trị nhiệt độ nước biển tầng mặt vùng Biển Đông biến đổi giữa các năm phụ thuộc vào cường độ, thời gian hoạt động của hệ thống gió mùa đông bắc và gió mùa tây nam. Sự chênh lệch này cũng thể hiện rõ giữa vùng ven bờ và vùng biển ngoài khơi. Trong đó, vào mùa đông, khu vực ven bờ nhất là phía bắc nhiệt độ đều thấp hơn và giá trị biến đổi giữa các năm lớn hơn so với khu vực ngoài khơi. Trong mùa hè còn thấy sự khác biệt rất lớn ở khu vực nước trồi hoạt động. Tóm lại, nhiệt độ nước biển tầng mặt vùng Biển Đông không chỉ tuân theo chu kỳ mùa, liên mùa, năm, nhiều năm, thập kỷ mà còn chịu sự tác động của biến đổi khí hậu, hiện tượng ENSO nóng, lạnh. Xu hướng nhiệt độ nước biển tầng mặt vùng Biển Đông ấm dần lên. Bản đồ phân bố nhiệt độ nước biển tầng mặt vùng Biển Đông theo mùa gió đông bắc, tây nam giai đoạn 2011 - 2020 được trình bày ở Hình 4. Sự biến đổi nhiệt độ nước biển tầng mặt trong giai đoạn chịu sự chi phối rất lớn bởi sự hoạt động của chế độ gió mùa thịnh hành. Mùa gió đông bắc hoạt động từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau, các khối khí xuất phát từ cao áp Xibia di chuyển về nước ta với tính chất lạnh khô và gây nên một mùa đông lạnh giá với nền nhiệt thấp ở vùng biển phía bắc. Do sự hoạt động mạnh mẽ của hệ thống gió mùa đông bắc đã đẩy các khối nước lạnh ép sát bờ, các khối nước lạnh này từ phía bắc Thái Bình Dương dọc theo ven bờ lục địa di chuyển về Biển Đông qua khe biển Phúc Kiến Trung Quốc và Đài Loan. Các khối nước lạnh này áp sát ven bờ lục địa hình thành “lưỡi” lạnh kéo dài đẩy dần xuống phía nam. Lưỡi nước lạnh này có quy mô khác nhau và ngày càng rõ rệt khi vào chính mùa gió đông bắc làm cho nhiệt độ nước biển bề mặt ven bờ phía bắc và phía tây Biển Đông từ Quảng Ninh, Hải Phòng vịnh Bắc Bộ đến Bạc Liêu, Cà Mau Đông Nam Bộ có dải nhiệt thấp hơn khu vực ngoài khơi và có xu hướng tăng dần khi về gần xích đạo. Điều này được thể hiện qua các đường đẳng nhiệt có xu hướng thu hẹp và gần nhau hơn. Cụ thể nhiệt độ nước biển tầng mặt trung bình mùa gió đông bắc giai đoạn 2011 - 2020 vùng Biển Đông dao động trong khoảng từ 18oC - 29oC, khu vực từ ven bờ phía bắc Biển Đông và một phần vùng biển Quảng Ninh có nền nhiệt thấp nhất ở khoảng từ 18oC - 20oC. Khu vực giữa vịnh Bắc Bộ và ven bờ Trung Bộ từ Nghệ An đến Sóc Trăng, Bạc Liêu do ảnh hưởng của “lưỡi” nước lạnh nhiệt độ ở khoảng 23oC - 26oC. Khu vực phía tây nam Việt Nam và vịnh Thái Lan nhiệt độ cao nhất so với toàn vùng biển, nhiệt độ ở khoảng 27oC - 28oC do ít bị ảnh hưởng bởi “lưỡi” nước lạnh từ Biển Đông, nơi có nền nhiệt ổn định và ít biến đổi. Khu vực xa bờ miền Trung và giữa Biển Đông nhiệt độ từ 26oC - 28oC và có xu hướng tăng dần từ vị trí quần đảo Hoàng Sa đến HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA VỀ CÔNG NGHỆ ĐỊA KHÔNG GIAN TRONG KHOA HỌC TRÁI ĐẤT VÀ MÔI TRƯỜNG 443 quần đảo Trường Sa Hình 4. Giá trị nhiệt độ nước biển tầng mặt chênh lệch từ vùng biển vịnh Bắc Bộ so với vùng biển Tây Nam Bộ ở mùa gió này là 9oC. Hình 4. Phân bố nhiệt độ nước biển tầng mặt oC theo mùa giai đoạn 2011 - 2020 HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA VỀ CÔNG NGHỆ ĐỊA KHÔNG GIAN TRONG KHOA HỌC TRÁI ĐẤT VÀ MÔI TRƯỜNG 444 Mùa gió tây nam hay còn gọi là gió tây nam hoặc gió mùa hè, là một đợt gió mùa hình thành từ trung tâm áp thấp Ấn Độ - Myanmar, hút gió từ bắc Ấn Độ Dương qua vịnh Bengan vào Việt Nam, thường xuất hiện bắt đầu vào tháng 4, hoạt động từ tháng 5 đến tháng 9, hoạt động mạnh khoảng tháng 7, tháng 8. Gió mùa tây nam xuất phát từ cao áp cận chí tuyến bán cầu nam hoạt động mạnh. Khi vượt qua vùng biển xích đạo, khối khí này trở nên nóng ẩm. Vào thời gian này nhiệt độ nước biển tầng mặt ít bị thay đổi theo không gian, bao phủ toàn bộ vùng Biển Đông ở khoảng nhiệt từ 29 oC - 31oC. So với mùa gió đông bắc, nhiệt độ nước biển tầng mặt ở mùa gió này cao hơn từ 1oC - 10oC, biến đổi mạnh nhất là khu vực vịnh Bắc Bộ. Ở một số vị trí gần bờ và ven lục địa, nhiệt độ nước biển tầng mặt mang tính chất địa đới. Điển hình tại vị trí ven bờ Ninh Thuận – Bình Thuận tồn tại một khu vực nước trồi hoạt động mạnh từ khoảng tháng 6 đến tháng 8 với nền nhiệt ở tâm nước trồi khoảng 26oC hoặc có thể thấp hơn Hình 4. Hiện tượng nước trồi ở đây được gây lên bởi gió mùa tây nam đưa nước lạnh ở dưới tầng sâu lên trên tầng mặt làm cho nhiệt độ nước ở khu vực này thấp hơn các vùng xung quanh. Hiện tượng nước trồi rất quan trọng với hoạt động nghề cá, tại đây nguồn năng suất sơ cấp thường rất cao do sự xáo trộn lớn giữa các lớp nước, các hợp chất vô cơ, hữu cơ được đưa từ tầng đáy lên lớp bề mặt, do đó đây chính là nơi tập trung cao ngư trường của một số loài cá nổi. 4. Kết luận Nhiệt độ nước biển tầng mặt vùng Biển Đông thay đổi theo quy luật chu kỳ mùa, liên mùa. Tuy nhiên sự biến động giá trị nhiệt độ nước biển tầng mặt tại vùng biển biến đổi giữa các năm phụ thuộc vào cường độ, thời gian hoạt động của hệ thống gió mùa đông bắc và gió mùa tây nam. Vào mùa gió đông bắc, phần lớn nhiệt độ nước biển tầng mặt tập trung trong khoảng giá trị từ 23oC - 29oC, nhiệt độ nhỏ hơn 23oC phân bố chủ yếu ven bờ lục địa phía bắc Biển Đông khoảng từ vĩ tuyến 20oN trở lên. Bản đồ phân bố không gian trung bình nhiều năm theo mùa, nhiệt độ nước biển tầng mặt dao động trong khoảng từ 18oC - 29oC, khu vực ven bờ phía bắc Biển Đông có nền nhiệt thấp, xu hướng phân bố tăng dần từ bắc vào nam, từ ven bờ ra ngoài khơi. Chênh lệch giá trị nhiệt độ nước biển tầng mặt trung bình ở vịnh Bắc Bộ và Tây Nam Bộ khoảng 9oC. Vào mùa gió tây nam, nhiệt độ nước biển tầng mặt phân bố với khoảng giá trị hẹp hơn, ít bị biến đổi theo không gian, phần lớn giá trị tập trung trong khoảng từ 29oC - 31oC bao phủ toàn vùng Biển Đông. Ở một số khu vực gần bờ mang tính chất địa đới, như ven bờ Ninh Thuận – Bình Thuận tồn tại một khu vực nước trồi hoạt động mạnh từ tháng 6 đến tháng 8, hiện tượng nước trồi là do sự xáo trộn giữa các lớp nước nên đã đẩy lớp nước tầng sâu lên mặt, do đó là nơi có điều kiện thuận lợi để phát triển sinh vật. Tài liệu tham khảo 1. Lê Quốc Huy và nnk 2017, Ảnh hưởng của dao động nội mùa quy mô tựa hai tuần đến trường gió và trường nhiệt độ bề mặt nước biển khu vực biển ven bờ Việt Nam trong mùa Hè, Tạp chí Khí tượng Thủy văn, số 7, tr 19 – 26. HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA VỀ CÔNG NGHỆ ĐỊA KHÔNG GIAN TRONG KHOA HỌC TRÁI ĐẤT VÀ MÔI TRƯỜNG 445 2. Bùi Thanh Hùng, Nguyễn Ngọc Tuấn và nnk 2019, Nghiên cứu phân bố và biến động các khu vực nước trồi và ảnh hưởng của chúng tới nguồn lợi cá nổi nhỏ vùng biển ven bờ Việt Nam, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Chuyên đề nghiên cứu nghề cá biển, năm thứ 19, số ISSN 1859 - 4581, tr 232 – 238. 3. Nguyễn Văn Hướng và nnk 2020, Nghiên cứu phân bố front nhiệt độ nước biển tầng mặt ở biển Việt Nam phục vụ dự báo ngư trường khai thác hải sản, Tạp chí khí tượng thủy văn, 2020 719, tr 66 – 75. 4. Bùi Hồng Long 2009, Hiện tượng nước trồi trong vùng biển Việt Nam, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội. 5. Nguyễn Duy Thành, Nguyễn Văn Hướng và Nguyễn Hoàng Minh 2017, Ứng dụng công nghệ viễn thám và GIS trong công tác dự báo ngư trường khai thác cá ngừ đại dương ở vùng biển Việt Nam, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tháng 12, tr 16 – 20. 6. Nguyễn Thế Tưởng 2006, Điều tra tổng hợp điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và môi trường vịnh Bắc Bộ, Trong báo cáo tổng kết đề tài, Bộ Khoa học công nghệ. 7. Minnett, P. J., Chin, T. M., Corlett, G. K., Gentemann, C. L., Karagali, I., Li, X., Marsouin, A., Marullo, S., Maturi, E., Santoleri, R., Picart, S. S., Steele, M., & Vazquez-cuervo, J 2019. Half a century of satellite remote sensing of sea-surface temperature, Remote Sensing of Environment, Vol 233September, 49p. 8. Robles-tamayo, C. M., Valdez-holgu, E., Garc, R., Figueroa-preciado, G., Herrera-cervantes, H., Juana, L., & Fernando, L 2018, Sea Surface Temperature SST Variability of the Eastern Coastal Zone of the Gulf of California, Remote Sensing, Vol 10, No 1434, pp 1 - 23. 9. Timothy P. Boyer, John I. Antonov et al 2009, World Ocean Database 2009, NOAA Atlas NESDIS 66, Sydney Levitus, Ed., 217 pp ABSTRACT THE TREND OF SEA SURFACE TEMPERATURE DISTRIBUTION IN THE EAST SEA FROM REMOTE SENSING DATA Nguyen Ngoc Tuan1, Do Thi Phuong Thao2, Ninh Thi Kim Anh3, Tran Thi Huong3 1 Research Institute for Marine Fisheries 2 Hanoi University of Mining and Geolog, 3 Hanoi University of Natural Resources and Environment Corresponding author nntuan On the basis of synthesizing and analyzing 120 months of data in the East Sea January 2011 – December 2020 on the surface sea temperature field from MODIS remote sensing data, the research results show that the stratosphere seawater temperature The HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA VỀ CÔNG NGHỆ ĐỊA KHÔNG GIAN TRONG KHOA HỌC TRÁI ĐẤT VÀ MÔI TRƯỜNG 446 surface has strong fluctuations in time difference between two wind seasons and space temperature gradually increases from north to south, from coastal to offshore, obeying the law of seasonal and inter-seasonal cycles. In the northeast monsoon season, the surface sea temperature is distributed at a wide temperature range, mainly in the range from 26oC - 30oC, the temperature is less than 23oC, distributed mainly along the northern coast of the East Sea to the latitude 20oN, the temperature difference between the Gulf of Tonkin and the Southwest is about 9oC. In the southwest monsoon season, the surface sea temperature is distributed at a narrower temperature range and is less variable in space, concentrating mainly in the range from 29oC - 31oC. Some coastal areas are of tropical nature, such as Ninh Thuan - Binh Thuan shoreline, there is an upwelling area with low temperature about 26oC that is active from June to August. The activity of rising water is very suitable for the development of marine life. Keywords MODIS Data, Sea Surface Temperature, Bien Dong Sea, Remote Sensing ResearchGate has not been able to resolve any citations for this temperature SST was one of the first ocean variables to be studied from earth observation satellites. Pioneering images from infrared scanning radiometers revealed the complexity of the surface temperature fields, but these were derived from radiance measurements at orbital heights and included the effects of the intervening atmosphere. Corrections for the effects of the atmosphere to make quantitative estimates of the SST became possible when radiometers with multiple infrared channels were deployed in 1979. At the same time, imaging microwave radiometers with SST capabilities were also flown. Since then, SST has been derived from infrared and microwave radiometers on polar orbiting satellites and from infrared radiometers on geostationary spacecraft. As the performances of satellite radiometers and SST retrieval algorithms improved, accurate, global, high resolution, frequently sampled SST fields became fundamental to many research and operational activities. Here we provide an overview of the physics of the derivation of SST and the history of the development of satellite instruments over half a century. As demonstrated accuracies increased, they stimulated scientific research into the oceans, the coupled ocean-atmosphere system and the climate. We provide brief overviews of the development of some applications, including the feasibility of generating Climate Data Records. We summarize the important role of the Group for High Resolution SST GHRSST in providing a forum for scientists and operational practitioners to discuss problems and results, and to help coordinate activities world-wide, including alignment of data formatting and protocols and research. The challenges of burgeoning data volumes, data distribution and analysis have benefited from simultaneous progress in computing power, high capacity storage, and communications over the Internet, so we summarize the development and current capabilities of data archives. We conclude with an outlook of developments anticipated in the next decade or coastal zones are areas with a high flow of energy and materials where diverse ecosystems are developed. The study of coastal oceanography is important to understand the variability of these ecosystems and determine their role in biogeochemical cycles and climate change. Sea surface temperature SST analysis is indispensable for the characterization of physical and biological processes, and it is affected by processes at diverse timescales. The purpose of this work is to analyze the oceanographic variability of the Eastern Coastal Zone of the Gulf of California through the study of the SST from time series analysis of monthly data obtained from remote sensors AVHRR-Pathfinder Version and Version 5 resolution of 4 km, MODIS-Aqua, resolution of 4 km for the period 1981 to 2016. The descriptive analysis of SST series showed that the values decrease from south to north, as well as the amplitude of the warm period decrease from south to north cold period increase from south to north. The minimum values occurred during January and February, and ranged between 18 and 20 • C; and maximum values, of about 32 • C, arose in August and September. Cluster analysis allowed to group the data in four regions south, center, midriff islands and north, the spectral analysis in each region showed frequencies of variation in scales Annual the main, seasonal, semiannual, and interannual. The latter is associated with the El Niño and La Niña climatological LevitusJ. ZwengThe World Ocean Database WOD is the most comprehensive global ocean profile-plankton database available internationally without restriction. All data are in one well-documented format and are available both on DVDs for a minimal charge and on-line without charge. The latest DVD version of the WOD is the World Ocean Database 2009 WOD09. All data in the WOD are associated with as much metadata as possible, and every ocean data value has a quality control flag associated with it. The WOD is a product of the National Oceanographic Data Center and its co-located World Data Center for Oceanography. However, the WOD exists because of the international oceanographic data exchange that has occurred under the auspices of the Intergovernmental Oceanographic Commission IOC and the International Council of Science ICSU World Data Center WDC system. World Data Centers are part of the ICSU World Data Thuoc Duy Nguyen ThanhIn recent years, the map for forecasting of tuna big eyes tuna and yellow fins tuna fishing grounds has based upon fisheries data of longline gear which were collected through different projects from the period of 1996 to 2010. These data resources have been restoring at the Research Institute for Marine Fisheries RIMF. Both univariate time series models and overlapping organized maps method were used in order to identify tuna fishing grounds by using geographical information system GIS tecnology based upon fisheries data of the catch per unit of effort CPUE. The CPUE was seemed to be main index for pointing out the potential areas for high concentration of tuna and evaluating the spatial distribution patterns of this species by season and time series. The spatial distribution patterns were equally limitted by the distance between longitute and latitute 30 by 30 nautical mile. The results of the fishing ground forecasting of tuna species in recent years reproduced main fishing grounds of this species. In addition, these results are comprehensively evaluated about changing trend of both spatial distribution and time series simultaneously. Furthermore, review of the results of this work in the period from 2000 to 2010 will be not only bring catching efficiency at that time but also significantly providing scientific information bases for fishing guidance and forecasting cứu phân bố front nhiệt độ nước biển tầng mặt ở biển Việt Nam phục vụ dự báo ngư trường khai thác hải sảnNguyễn Văn Hướng và nnk 2020, Nghiên cứu phân bố front nhiệt độ nước biển tầng mặt ở biển Việt Nam phục vụ dự báo ngư trường khai thác hải sản, Tạp chí khí tượng thủy văn, 2020 719, tr 66 -75. tra tổng hợp điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và môi trường vịnh Bắc Bộ, Trong báo cáo tổng kết đề tàiTưởng Nguyễn ThếNguyễn Thế Tưởng 2006, Điều tra tổng hợp điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và môi trường vịnh Bắc Bộ, Trong báo cáo tổng kết đề tài, Bộ Khoa học công nghệ. Lý thuyết lớp 8 môn Địa lýLý thuyết Địa lí 8 bài 24 Vùng biển Việt NamA. Giải bài tập Địa lí 8 bài 24B. Lý thuyết Địa lý 8 bài 241. Đặc điểm chung của vùng biển Việt Nam2. Tài nguyên và bảo vệ môi trường biển Việt NamC. Trắc nghiệm Địa lý 8 bài 24Lý thuyết Địa lý lớp 8 bài 24 Vùng biển Việt Nam tổng hợp lý thuyết môn Địa lý lớp 8, kèm câu hỏi trắc nghiệm Địa lí 8 bài 24 giúp các em vận dụng lý thuyết vào trả lời câu hỏi một cách dễ dàng hơn. Hi vọng rằng đây sẽ là những tài liệu hữu ích trong công tác giảng dạy và học tập của quý thầy cô và các bạn học ý Nếu bạn muốn Tải bài viết này về máy tính hoặc điện thoại, vui lòng kéo xuống cuối bài Giải bài tập Địa lí 8 bài 24Giải SGK Địa lý lớp 8 bài 24 Vùng biển Việt NamGiải SBT Địa lý 8 bài 24 Vùng biển Việt NamB. Lý thuyết Địa lý 8 bài 241. Đặc điểm chung của vùng biển Việt Nama Diện tích, giới hạn- Vùng biển Việt Nam là một phần của biển Đông- đây là một vùng biển kín, nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa của Đông Nam Vùng biển nước ta rộng khoảng 1 triệu Chế độ gió mùa đông gió có hướng đông bắc; mùa hạ có hướng tây nam khu vực vịnh Bắc Bộ có hướng Chế độ nhiệt Mùa hạ mát, mùa đông ấm hơn đất liền, biên độ nhiệt Chế độ mưa Lượng mưa trung bình năm khoảng Dòng biển các dòng biển trên biển thay đổi hướng theo Chế độ triều Vùng biển ven bờ có nhiều chế độ triều khác Độ muối trung bình của Biển Đông là 30-33‰.2. Tài nguyên và bảo vệ môi trường biển Việt Nama Tài nguyên biển- Tài nguyên biển phong phú, đa dạng và có giá trị to lớn về mặt kinh tế, quốc phòng, hóa học,…- Tuy nhiên biển nước ta nhiều thiên tai bão, sạt lở bờ biển,…- Ngày nay, một số vùng biển ven bờ của nước ta bị ô nhiễm, các nguồn lợi hải sản bị suy Môi trường biển- Ngày nay, một số vùng biển ven bờ của nước ta bị ô nhiễm, các nguồn lợi hải sản bị suy Trắc nghiệm Địa lý 8 bài 24..................Với nội dung bài Vùng biển Việt Nam, các bạn học sinh cần nắm vững kiến thức về đặc điểm chung của vùng biển Việt Nam, tài nguyên và bảo vệ môi trường biển Việt Nam ... Để xem lý thuyết những bài tiếp theo, mời các bạn vào chuyên mục Lý thuyết Địa lí 8 trên VnDoc nhé. Chuyên mục tổng hợp lý thuyết môn Địa lí lớp 8 theo từng bài, giúp các em dễ dàng theo dõi để phục vụ cho việc học tập ở nhà được tốt hơn. Chúc các em học vậy VnDoc đã giới thiệu các bạn tài liệu Lý thuyết Địa lý lớp 8 bài 24 Vùng biển Việt Nam. Mời các bạn tham khảo thêm tài liệu Lý thuyết Địa lý lớp 8, Giải bài tập Địa lí 8, Giải tập bản đồ Địa lí 8, Giải Vở BT Địa Lí 8, Tài liệu học tập lớp 8 Đặc điểm khí hậu và hải vân của biển Khí hậu các đảo gần bờ về cơ bản giống như khí hậu vùng đất liền lân cận. Còn khu vực biển xa, khí hậu có những nét khác biệt lớn với khí hậu đất liền. - Chế độ gió Trên Biển Đông, gió hướng đông bắc chiếm ưu thế trong bảy tháng, từ tháng 10 đến tháng 4. Các tháng còn lại trong năm, ưu thế thuộc vé gió tây nam, riêng ở vịnh Bắc Bộ chủ yếu là hướng nam. Gió trên biển mạnh hơn trên đất liền rõ rệt. Tốc độ gió trung bình đạt 5-6 m/s và cực đại tới 50 m/s, tạo nên những sóng nước cao tới 10 m hoặc hơn. Dông trên biển thường phát triển về đêm và sáng. - Chế độ nhiệt Ở biển, mùa hạ mát hơn và mùa đông ấm hơn đất liền. Biên độ nhiệt trong năm nhỏ. Nhiệt độ trung bình năm của nước biển tầng mặt là trên 23°C. - Chế độ mưa Lượng mưa trên biển thường ít hơn trên đất liền, đạt từ 1100 đến 1300 mm/năm. Ví dụ lượng mưa trên đảo Bạch Long Vĩ là 1127 mm/năm, trên đảo Hoàng Sa là 1227 mm/năm. Sương mù trên biển thường hay xuất hiện vào cuối mùa đông đầu mùa hạ. Cùng với các dòng biến, trên vùng biển Việt Nam còn xuất hiện các vùng nước trôi và nước chìm, vận động lên xuống theo chiều thẳng đứng, kéo theo sự di chuyển của các sinh vật biển. - Chế độ triều Thủy triều là nét rất đặc sắc của vùng biển Việt Nam. Vùng biển ven bờ nước ta có nhiều chế độ triều khác nhau. Trong đó, chế độ nhật triều của vịnh Bắc Bộ được coi là điển hình của thế giới, ở đây mỗi ngày chỉ có một lần nước lên và một lần nước xuống rất đều đặn. - Độ muối trung bình của Biển Đông là 30 - 33%. Theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia, hồi 1 giờ ngày 10/6, vùng áp thấp trên khu vực phía Bắc của vịnh Bắc Bộ có vị trí ở khoảng 20,5-21,5 độ Vĩ Bắc; 107,5-108,5 độ Kinh 1 giờ ngày 11/6, vùng áp thấp tiếp tục ít di chuyển, có khả năng mạnh lên thành áp thấp nhiệt đới. Trên vịnh Bắc Bộ có mưa dông mạnh; trong mưa dông có khả năng xảy ra lốc xoáy và gió giật mạnh cấp 6-7, ảnh hưởng tới tàu thuyền hoạt động trên khu vực vịnh Bắc Bộ. Mưa vừa, mưa to và dông, gió giật mạnh cục bộ có khả năng xảy ra ở khu vực các tỉnh ven biển phía Đông Bắc ra, do ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam có cường độ trung bình đến mạnh nên trong ngày và đêm 10/6, vùng biển từ Bình Thuận đến Cà Mau, Cà Mau đến Kiên Giang, vịnh Thái Lan và khu vực Biển Đông bao gồm vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa có mưa rào và dông mạnh. Trong mưa dông có khả năng xảy ra lốc xoáy và gió giật mạnh cấp 6-7. Vùng biển từ Khánh Hòa đến Cà Mau và vùng biển phía Tây Nam của khu vực giữa Biển Đông có gió Tây Nam mạnh cấp 5, có lúc cấp 6, giật cấp 7; sóng biển cao từ 2-3,5 m; biển lớn gây ngập úng. Ảnh Nguyễn Công Hải - TTXVNTheo hướng dẫn của Ban Chỉ đạo Quốc gia về phòng, chống thiên tai, trước tình hình gió mạnh, sóng lớn và mưa dông trên vịnh Bắc Bộ, các cơ quan chức năng cần thông báo cho các phương tiện, tàu thuyền đang hoạt động trên biển biết diễn biến trên để chủ động phòng tránh, bảo đảm an toàn và có kế hoạch sản xuất phù hợp; duy trì thông tin liên lạc, sẵn sàng lực lượng, phương tiện để cứu hộ, cứu nạn khi có tình huống...Trên đất liền, ngày và đêm 10/6, khu vực vùng núi và ven biển Đông Bắc của Bắc Bộ có mưa rào và dông rải rác, cục bộ có mưa vừa, mưa to với lượng mưa 10-30 mm, có nơi trên 50 mm. Từ ngày 10-11/6, khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ có mưa vừa, có nơi mưa to đến rất to với lượng mưa phổ biến từ 40-80 mm, có nơi trên 120 mm mưa tập trung vào chiều và tối. Trong mưa dông có khả năng xảy ra lốc, sét, mưa đá và gió giật mạnh. Mưa lớn cục bộ có khả năng gây ra tình trạng ngập úng tại các vùng trũng, thấp. Cấp độ rủi ro thiên tai do lốc, sét, mưa đá cấp báo ngày và đêm 10/6 Phía Tây Bắc Bộ có mây, ngày có mưa rào và dông vài nơi, có nơi có nắng nóng; chiều tối và đêm có mưa rào và dông rải rác, cục bộ có mưa to; trong mưa dông có khả năng xảy ra lốc, sét, mưa đá và gió giật mạnh. Nhiệt độ thấp nhất 24-27 độ C, có nơi dưới 23 độ C. Nhiệt độ cao nhất 31-34 độ C, có nơi trên 34 độ C; riêng Lào Cai-Yên Bái 34-36 độ Đông Bắc Bộ có mây, ngày nắng, có nơi nắng nóng, chiều tối và đêm có mưa rào và dông vài nơi; riêng Quảng Ninh-Hải Phòng có mưa rào và dông rải rác, cục bộ có mưa to; trong mưa dông có khả năng xảy ra lốc, sét, mưa đá và gió giật mạnh. Nhiệt độ thấp nhất 25-28 độ C. Nhiệt độ cao nhất 32-35 độ C, có nơi trên 35 độ đô Hà Nội có mây, ngày nắng, chiều tối và đêm có mưa rào và dông vài nơi. Gió nhẹ. Nhiệt độ thấp nhất 26-28 độ C. Nhiệt độ cao nhất 33-35 độ tỉnh từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên - Huế có mây, ngày nắng, có nơi có nắng nóng; chiều tối và đêm có mưa rào và dông vài nơi; trong mưa dông có khả năng xảy ra lốc, sét, mưa đá và gió giật mạnh. Nhiệt độ thấp nhất 25-28 độ C. Nhiệt độ cao nhất 32-35 độ C, có nơi trên 35 độ tỉnh, thành phố từ Đà Nẵng - Bình Thuận có mây, ngày nắng, có nơi có nắng nóng; chiều tối và đêm có mưa rào và dông vài nơi; trong mưa dông có khả năng xảy ra lốc, sét, mưa đá và gió giật mạnh. Gió Tây Nam cấp 2-3. Nhiệt độ thấp nhất 25-28 độ C. Nhiệt độ cao nhất 32-35 độ C, có nơi trên 35 độ vực Tây Nguyên và Nam Bộ có mây, có mưa rào và dông vài nơi, riêng chiều và tối có mưa vừa, có nơi mưa to đến rất to và dông; trong mưa dông có khả năng xảy ra lốc, sét, mưa đá và gió giật mạnh. Gió Tây Nam cấp 2-3. Nhiệt độ thấp nhất tại Tây Nguyên 20-23 độ C; cao nhất 26-29 độ C, có nơi trên 29 độ C. Nhiệt độ thấp nhất tại Nam Bộ 24-27 độ C; cao nhất 30-33 độ C, có nơi trên 33 độ C.

chế độ nhiệt vào mùa đông ở biển